Bệnh vảy nến là nhóm bệnh ngoài da, nó thường xuất hiện ở mọi đối tượng, mọi lứa tuổi. Đây là bệnh mãn tính thế nhưng lành, tuy nhiên căn bệnh cũng dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cũng như cuộc sống của người bệnh.

Yếu tố gây ra nhóm bệnh Vảy nến

Bệnh lý vảy nến hiện giờ chưa xác định rõ nguyên nhân, tuy nhiên, một vài yếu tố dưới đây cũng được xem là tác nhân gây ra căn bệnh và làm cho bệnh lý tiến triển nặng hơn như:

- Những vết thương tại da bởi phẫu thuật, chấn thương, vết trầy xước, vết cắt,…

- Bệnh bởi vi khuẩn, virus: nhiễm khuẩn, zona…


- Tại căng thẳng thần kinh, trầm cảm, lo âu

- Do tác dụng phụ của một số loại thuốc kháng viêm corticoid, steroid, thuốc huyết áp, kháng sinh…

- Có thể vì chế độ ăn uống, lối sống, thay đổi thời tiết hoặc tiếp xúc với hóa chất.

Những triệu chứng xuất hiện bệnh Vảy nến

- Tổn thương tại móng: Thường gặp là rỗ móng, dày móng, có khả năng cả móng tay và chân.

- Tổn thương ở da: Da phát hiện các đám màu đỏ, được giới hạn to nhỏ khác nhau, hơi cộm, nhiều vảy trắng, dễ bong, cạo ra như bột trắng hoặc nến vụn. Thường xảy ra ở khu vực da tỳ đè: khuỷu tay, đầu gối, xương cùng, xương trụ cẳng tay, rìa trán,…hoặc ở da đầu có nhiều vảy. Căn bệnh có thể ngứa số đông hoặc ít, tùy vào giai đoạn bệnh.

- Tổn thương tại khớp: Thường xảy ra ảnh hưởng viêm khớp mạn tính, lệch khớp, cứng khớp, thậm chí biến dạng khớp.



Các loại thuốc điều trị vảy nến đặc hiệu


Cho đến thời điểm này, vẫn chưa có thuốc chữa bệnh nhóm bệnh vảy nến hết mà chỉ có thể duy trì ổn định để bệnh lý không gây hệ quả và giảm bớt sự bực bội cho người bệnh. Việc khắc phục căn bệnh là cả một thách thức, tất cả các loại thuốc điều trị vảy nến đều với mục đích là chống viêm và ức chế phân bào tế bào thượng bì da, làm gián đoạn sự tăng sinh quá nhanh của tế bào biểu bì, giảm viêm da

Chiến lược khắc phục căn bệnh gồm 2 giai đoạn chữa trị xâm nhập (làm sạch tổn thương, giảm sự bực bội do bệnh gây nên, hạn chế tác dụng phụ của thuốc) và giai đoạn duy trì (duy trì sự làm sạch vết thương bằng sự gắn bó hiệu quả của những loại thuốc chữa trị vảy nến, sự tuân thủ của người bệnh và kinh nghiệm khắc phục của bác sĩ), các cách sử dụng có khả năng là sử dụng thuốc luân chuyển, đơn độc tùy thuộc từng người bệnh. Khi sử dụng thuốc khắc phục vảy nến phải phối hơp với liệu pháp tâm lý.

Những thuốc điều trị vảy nến ở chỗ

Bệnh nhân sử dụng thuốc bôi vảy nến : thuốc bạt sừng bong vảy thuốc mỡ salicylic 2-10% hoặc mỡ BenzoSaly vào khu vực da bị tổn thương nhiều vảy. Khi vảy bong bớt đi hoặc dứt điểm thì có thể bôi những chế phẩm chứa steroid như Flucinar, Synalar, Temprosone, Fucicort, Diprosalic…Đây đều là các loại thuốc đặc trị vảy nến thường được các bác sĩ chuyên khoa chỉ định. Hơn thế nữa bạn có thể tắm gội bằng Sastid hoặc Polytar

Các loại thuốc ức chế chuyển hóa miễn dịch như:


Thuốc Donovex thuộc nhóm Vitamin D tổng hợp có tác dụng làm giảm viêm và ngăn sự tăng sinh tế bào da.

Thuốc mỡ Methotrexate 0,5-1% thuốc này có tác dụng ức chế sản sinh tế bào thượng bì nhất là là tế bào sừng. Nhưng thuốc có thể gây nên đau đỏ , sưng và lợt nhẹ, đối với người mẫn cảm với thuốc này có khả năng trở thành viêm da dị ứng.

Thuốc mỡ 5-Fluouracil 5% giúp ức chế tăng sinh tế bào thượng bì, nhưng thuốc nhược điểm là có khả năng gây phản ứng viêm ở chỗ.

Thuốc Glucocorticoid thuốc có tác dụng chống viêm khiến nhóm bệnh đỡ nhanh, không dẫn đến bẩn quần áo và có mùi bức rức. Thế nhưng thuốc có thể gây teo da, rạn da, mụn trứng cá, viêm nang lông, nhờn thuốc.

Vitamin D và dẫn xuất: những chế phẩm vitamin D3-Calcipotrio được bào chế dưới dạng mỡ, crem và dung dịch cho da thuốc có thể dùng hàng ngày hoặc 2 lần/ ngày. Thuốc điều trị vảy nến này có tác dụng ức chế tăng sinh biểu bì, chống viêm, điều hòa miễn dịch ở chỗ. Thuốc Calcipotriol là thuốc bôi tốt nhất khi chữa bệnh bệnh lý, thuốc có công dụng làm bệnh đỡ nhanh, tránh nhờn thuốc. Nhưng, thuốc giới hạn tới thể mảng nếu bôi tương đối lớn hơn 30% diện tích da có khả năng gây tăng canxi máu.

Đối với các mảng vết thương cố thủ trên da đầu thì có khả năng sử dụng thuốc trị vảy nến Anthralin. Những mảng nhỏ thì điều trị bằng tiêm steroid tại vết thương

Tổn thương tại móng thì sử dụng Calcipotriol dung dịch và gel tazarotene bệnh sẽ cải thiện nhưng đòi hỏi người bệnh phải kiên trì. Hiện giờ, có loại thuốc thành công hơn cho vết thương ở móng là dùng thuốc uống hay tiêm methotrexate.

Thuốc chữa vảy nến toàn thân

Song song với bôi thuốc chữa bệnh ở chỗ bạn cũng cần thuốc khắc phục toàn thân khi bệnh lý trong giai đoạn bùng phát bằng thuốc kháng sinh như Ampicilline hoặc Rovamycin. Có khả năng dùng thêm thuốc chống ngứa, chống dị ứng như Phenecgan hoặc Chlorpheniramine lúc đi ngủ.

Retinoid và các dẫn xuất: Retinoid là thuốc vảy nến hay được dùng (Etretinat và Acitretin). Acitretin: sử dụng khi bị vẩy nến mụn mủ toàn thân, đỏ da đạt hiệu quả cao. Hiệu quả vừa phải với vẩy nến mụn mủ tại lòng bàn tay, bàn chân. Hợp lại với quang chữa liệu để đạt hiệu quả cao hơn.Thuốc này giúp điều biến miễn dịch, chống thâm nhiễm tế bào viêm biểu bì. Thuốc có một số tác dụng phụ như khô niêm mạc, viêm kết mạc thị lực, rụng tóc, đau đầu, ngứa,…

Thuốc ức chế phân bào: Methotrexate thuốc chữa vảy nến đỏ da, vảy nến mụn mủ toàn thân, khả năng khớp, thể mảng cứng đầu, sử dụng uống hoặc tiêm bắp dưới da. Thuốc có tác dụng chống viêm tốt, tiện lợi khi sử dụng, trường hợp sử dụng đúng liều lượng ít tạo nên tác dụng phụ, rẻ mức phí. Cẩn trọng với bệnh nhân khá lớn tuổi.

Cyclosporine thuốc đặc chữa trị vảy nến viêm nghiêm trọng. Sau khi có thành công thì cần giảm dần liều lượng dùng. Thế nhưng thuốc có tác dụng phụ là tăng huyết áp và độc với thận

Một số loại thuốc chữa trị vảy nến mới và các chất sinh hoc đang được dùng để chữa bệnh tuy nhiên bởi giá thành tương đối cao và đa số tác dụng phụ nên ít được áp dụng ở nước ta như: Infliximab, Etanercep, Adalimumab

Các liệu pháp khác

Sử dụng ánh sáng điều trị liệu (phototherary): ánh sáng UVB có tác dụng ức chế tăng sinh tế bào biểu bì, cảm ứng tế bào lympho T, giảm số lượng và nguy cơ trình diện của tế bào Langerhans, ảnh hưởng lên tế bào keratin. Tuy nhiên, chiếu UVB có thể gây nên ban đỏ, bỏng rát, da lão hóa sớm vì thế hiện nay thường sử dụng tia UVB phổ hẹp.

Liệu pháp quang hóa((photochemotherapy): dùng PUVA, PUVA giúp ức chế tổng hợp DNA, giảm sự hoạt động của tế bào lympho T, ức chế tế bào sừng, chống phân bào, nhanh chóng làm sạch vết thương. Biện pháp này hiệu quả khi nhóm bệnh đang chuyển biến hoặc người tái phát căn bệnh. Khi dùng liệu pháp này có tác dụng phụ như đỏ da, lão hóa da, đục thủy tinh nguy cơ, tăng thể ung thư da. Đây là biện pháp thành công thế nhưng chưa phải là tốt nhất.